Ngày 04 tháng 11 năm 2019, tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam,
Nghiên cứu sinh (NCS) Nguyễn Tài Toàn, sinh năm 1981, đã bảo vệ thành công luận
án Tiến sĩ cấp Học viện, Chuyên ngành Di truyền và chọn giống cây trồng.
Tên luận án: Nghiên cứu khai thác nguồn gen cây vừng phục vụ chọn
tạo giống vừng năng suất hạt và hàm lượng dầu cao cho vùng đất cát pha ven biển
tỉnh Nghệ An
Mã
số: 9 62 01 11
Người hướng dẫn khoa học: 1. GS.TS. Trần Tú
Ngà
2.
GS.TS. Vũ Văn Liết
Cơ sở đào tạo: Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Hội đồng chấm luận án gồm 7 thành viên:
1. GS.TS. Trần Đức Viên Chủ tịch Hội đồng
2. PGS.TS. Nguyễn Thị Trâm Phản
biện 1
3. PGS.TS. Đặng Trọng Lương
Phản biện 2
4. PGS.TS. Lã Tuấn Nghĩa Phản biện 3
5. TS. Đoàn Thu Thủy Thư ký
6. PGS.TS. Khuất Hữu Trung Ủy viên
7. TS. Vũ Đình Chính Ủy viên
Kết quả bảo vệ theo đánh giá của Hội đồng chấm Luận án: 7/7 thành viên của Hội đồng chấm Luận án nhất trí thông qua và
đề nghị công nhận học vị Tiến sĩ cho NCS.
Những đóng góp của Luận án sau đây:
1. Đã thu thập và bảo tồn thành công 56
mẫu giống vừng, trong đó có 46 mẫu giống thu thập trong nước và 10 mẫu giống vừng
nhập nội. Các mẫu giống vừng này là nguồn vật liệu phục vụ cho công tác chọn tạo
giống theo các mục tiêu khác nhau như chọn giống năng suất và có hàm lượng dầu
cao... Bên cạnh đó đã tuyển chọn được 03 mẫu giống là G26, G51 và G53 có tiềm
năng năng suất khá với năng suất đạt tương ứng là 8,97, 9,40 và 9,66 g/cây.
2. Đã đánh
giá được mức độ đa dạng di truyền của 56 mẫu giống vừng dựa trên đặc điểm hình
thái và chỉ thị phân tử SSR và SRAP. Kết quả đánh giá đa dạng di truyền chỉ ra
rằng cần thiết phải bảo tồn nguồn gen vừng. Trong chọn giống mới, cần sử dụng
nguồn gen thuộc các nhóm di truyền khác nhau nhằm tăng khả năng tạo biến dị tái
tổ hợp cho giống tương lai.
3. Đã xác định được các dòng bố là dòng
G15 và G53 có khả năng kết hợp chung cao cho năng suất và
các yếu tố cấu thành năng suất. Dòng mẹ G20 (vừng vàng Diễn Châu) và
giống V6 có khả năng kết hợp chung cao về các chỉ tiêu số quả/cây và
số hạt/quả. Một số tổ hợp lai như V6 x G8, G20
x G51, V6 x G23 và V6 x G15
có khả năng kết hợp riêng cao, phục vụ công tác chọn tạo giống mới có năng suất
và hàm lượng dầu cao.
4. Đã sơ bộ xác định được sự di truyền của
một số tính trạng như lông trên quả, đặc tính phân cành, số hàng hạt trên quả,
số quả trên nách lá được kiểm soát bởi một cặp gen alen theo kiểu trội lặn và ở
F2 phân ly theo tỷ lệ 3:1. Đây là những thông tin quan trọng phục vụ
chọn lọc kiểu cây thâm canh trong chọn giống vừng.
5. Đã chọn tạo được
dòng vừng mới NLV10 có thời gian sinh trưởng trung bình, vụ Xuân 85
- 90 ngày, vụ Hè Thu 80 - 85 ngày. Giống có thân đứng, không phân cành, bộ lá đứng,
rụng khi chín, thích hợp trồng thâm canh và trồng dày. Dòng NLV10 có
cây cao, nhiều quả trên thân, quả có 4 hàng hạt, hạt có khối lượng lớn
(>3,00 g), năng suất biến động từ 11,73 - 12,60 tạ/ha, tương đương với giống
vừng V6 và vượt khoảng 25% so với giống vừng VĐ11. Bên cạnh
đó, dòng NLV10 có hàm lượng dầu trung bình (44,23%), tỷ lệ
Oleic/Linoleic thấp (0,87) và chỉ số Iod cao (112) phù hợp để chế biến dầu cao
cấp phục vụ nhu cầu trong nước và hướng đến xuất khẩu.
Sau đây là một số hình ảnh tại
buổi bảo vệ:
NCS. Nguyễn Tài Toàn chụp ảnh cùng Hội đồng chấm luận án
NCS. Nguyễn Tài Toàn chụp ảnh cùng tập thể hướng dẫn khoa học
GS.TS. Phạm Văn Cường - Phó Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam chúc
mừng
Đồng nghiệp chúc mừng NCS